THỊ TRƯỜNG ĐÁ ỐP LÁT
Đá ốp lát ở nước ta đã được ra đời trên nghìn năm, bằng bàn tay, trí óc của các nghệ nhân đã khai thác, đục, đẽo, chế tác ra nhiều sản phẩm đá granite, cẩm thạch góp phần xây dựng nên nhiều công trình kiến trúc cổ đại. Trong những năm gần đây đá ốp lát đã dần dần phát triển thành ngành công nghiệp. Từ sản lượng nhỏ bé 0,2 triệu m2 vào năm 1990, lên 0,5 triệu m2 vào năm 1995 và 1,52 triệu m2 năm 2000, đến nay đã tăng lên 6,5 triệu m2 tăng gấp 32 lần so với năm 1990. 
 Nhiều trung tâm khai thác chế biến đá ốp lát đã hình thành ở các địa phương, nổi bật nhất là tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên và một số tỉnh miền Đông Nam bộ,… Ngày nay, thực trạng đá ốp lát ở nước ta rất đa dạng và phong phú, về màu sắc có: đỏ, đen, hồng, xanh, xám, trắng, lục… Kích thước lớn nhỏ khác nhau 10 x 10 x 10 cm, 10 x 20 x 40cm, 30 x 50 x 10 từ 30 x 30cm, 40 x 40cm, 50 x 50cm, 60 x 60cm và lớn hơn theo yêu cầu kiến trúc, chất lượng đá khác nhau từ đá granite, đá cẩm thạch đến đá bazan, đá gabro,… đáp ứng nhu cầu xây dựng cho mọi công trình, thay thế hàng nhập khẩu loại đá ốp lát cao cấp cho các công trình kiến trúc hiện đại. Đá ốp lát Việt Nam được sử dụng rộng rãi trong nhà, ngoài nhà, tường rào, lát vỉa hè đường phố.
Đá ốp lát nước ta không chỉ lưu thông trên thị trường nội địa mà còn xuất khẩu đá ốp lát ra nước ngoài được thị trường thế giới ưa chuộng và đã có mặt trên thị trường của 85 nước và vùng lãnh thổ.
    Kim ngạch xuất khẩu đá ốp lát năm 2007 đạt 99.317.547 USD so với năm 2001 tăng gấp 7,2 lần; kim ngạch xuất  khẩu đá ốp lát với tốc độ tăng trưởng bình quân 38,5% năm. Xuất khẩu lớn nhất là Công ty Stone Vina.
    Trong số 87 nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu đá ốp lát Việt Nam, chỉ có 15 nước có kim ngạch nhập khẩu trên 1 triệu USD, 22 nước có kim ngạch nhập khẩu trên 100.000 USD, còn hơn 48 thị trường có kim ngạch dưới 100.000 USD. Tổ chức xuất khẩu của ta do nhiều đơn vị cùng làm với kim ngạch nhỏ bé, phân tán không có sức mạnh tổng hợp, sức cạnh tranh còn yếu, chưa đủ sức vào các thị trường lớn. Ngoại trừ công ty Stone Vina sản xuất và xuất khẩu đá ốp lát thạch anh nhân tạo trực tiếp 16 triệu USD năm 2007 và 22 triệu USD năm 2008.
    Đá xây dựng xuất khẩu: 
    - Có 87 thị trường các nước vùng lãnh thổ nhập đá ốp lát.
    - Kim ngạch xuất khẩu: Năm 2007 là 99.317.547 USD.
    - Có 15 nước kim ngạch xuất khẩu đạt từ 1 triệu trở lên.

Trừ một số mỏ cấp cho các công ty có năng lực tổ chức khai thác lớn với trang thiết bị cơ giới có thiết bị cưa, cắt, khoan, nêm, tách theo công nghệ trung bình, còn đa số các mỏ được cấp cho các chủ, xí nghiệp nhỏ không đủ năng lực tổ chức khai thác manh mún, khai thác theo phương pháp thủ công, không có thiết kế, không theo đúng quy chuẩn khai thác mỏ đá ốp lát mà tiến hành khoan nổ, bắn mìn, nêm phá nát làm rạn nứt khối đá, phá nát mỏ đá, do đó không thu được đá chất lượng tốt, khối lượng lớn. 
  


    - Về chế biến đá, ngoại trừ một số công ty lớn có năng lực trang thiết bị như thiết bị cưa, xẻ mài, đánh bóng hiện đại, sử dụng máy cưa dây, cưa dàn, máy mài liên tục 10-16 đầu mài tự động, máy cắt, mài cạnh chuẩn xác, sản phẩm đạt chất lượng cao cấp, kích thước lớn. Còn lại đa số xí nghiệp nhỏ dùng công nghệ cũ, kết hợp cơ giới và thủ công sản xuất sản phẩm kích thước nhỏ, chất lượng không đồng nhất, thiếu sức cạnh tranh, không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, không vào được các công trình xây dựng cao cấp.
    - Tiềm năng khoáng sản để sản xuất đá ốp lát của nước ta rất đa dạng phong phú về chủng loại đá granite, đá cẩm thạch, đá gabro, đá bazan, đá marble, thạch anh màu sắc các loại: màu đỏ, vàng, trắng, hồng, xanh, lục, đen,… với trữ lượng rất lớn, theo tài liệu tìm kiếm thăm dò của 6 vùng: Tây Bắc, Đông Bắc Bắc Bộ, vùng Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và duyên hải miền Trung, miền Đông Nam bộ và Tây Nam Bộ, có 325 mỏ, với trữ lượng tìm kiếm là 37 tỷ m3, đến nay chưa có khảo sát đầy đủ, chỉ khảo sát một số lượng mỏ rất nhỏ do các chủ xí nghiệp khảo sát để khai thác. Dự kiến trữ lượng có thể khai thác được trên 4 tỷ m3. Đây là một trữ lượng đá rất lớn có thể khai thác, chế biến hàng trăm tỷ m2 đá ốp lát phục vụ xây dựng đất nước và xuất khẩu lâu dài.
    - Về thị trường tiêu thụ đá ốp lát ngày càng mở rộng theo khuynh hướng “Kiến trúc thân thiện với môi trường” dùng đá xây dựng, đá ốp lát trong nhà, sân vườn, làm hàng nội thất tạo ra môi trường mát mẻ đưa cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Cộng với những yếu tố khác lượng đá ốp lát tiêu thụ nội địa ở nước ta tăng hàng năm từ 25 - 30% và trong tương lai là thị trường tiêu thụ lớn. Đồng thời thị trường tiêu thụ đá ốp lát toàn cầu cũng tăng trưởng nhanh chóng. Kim ngạch xuất nhập khẩu đá ốp lát toàn cầu tăng nhanh năm 2007 kim ngạch xuất nhập khẩu toàn cầu dự kiến 26 tỷ USD tăng 2 lần so với năm 2001.
    Kim ngạch xuất khẩu đá ốp lát của nước ta trong những năm qua tuy có tăng trưởng nhanh, nhưng chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ bé so với kim ngạch xuất khẩu toàn cầu từ 0,23% lên 0,793%, (xem bảng 3) đá ốp lát Việt Nam đã cắm chân ở một số thị trường quan trọng để làm bàn đạp cho xuất khẩu. Đây là thị trường rộng mở cho ngành đá ốp lát Việt Nam thâm nhập trong bối cảnh hội nhập quốc tế (năm 2006 Trung Quốc xuất khẩu 1,482 triệu tấn đá ốp lát với kim ngạch xuất khẩu 2,869 tỷ USD chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu đá toàn cầu). 

    Như phân tích ở trên, Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đá ốp lát rất phong phú, đa dạng, thị trường tiêu thụ nội địa và nước ngoài rất rộng lớn, lại có nguồn lao động dồi dào, có năng khiếu tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật. Đây là những tiềm năng to lớn để phát triển. Hơn nữa trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO tham gia vào thị trường toàn cầu không chỉ có xuất khẩu mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu các nguyên liệu đá khối có chất lượng tốt, màu sắc đẹp mà nước ta không có để về gia công chế biến cung cấp cho thị trường trong nước, đồng thời xuất khẩu ra nước ngoài, tăng năng lực cạnh tranh của đá ốp lát Việt Nam trên thị trường Quốc tế.  


 
    - Cần xây dựng chiến lược đầu tư phát triển bền vững ngành công nghiệp đá ốp lát nước ta đạt mục tiêu 20 triệu m2 với kim ngạch xuất khẩu 400 triệu - 500 triệu USD vào năm 2020 và 35 - 40 triệu m2  với kim ngạch xuất khẩu từ 800 triệu - 1 tỷ USD vào năm 2030. Mục tiêu chính đẩy mạnh vào đá ốp lát.
    - Sắp xếp cơ cấu lại tổ chức xí nghiệp khai thác chế biến đá ốp lát có quy mô hợp lý, thật sự có năng lực, có điều kiện đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại. Hình thành một số doanh nghiệp đá ốp lát có quy mô lớn, một số trung tâm sản xuất đá ốp lát ở một số địa phương thành các trọng điểm phát triển ngành đá ốp lát như Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên, Đồng Nai, Tp.HCM, Hà Nội, Yên Bái,…
    - Cơ cấu sắp xếp lại tổ chức kinh doanh xuất khẩu đá ốp lát hình thành các trung tâm thương mại lớn trong nước và nước ngoài. Năm 2006 có 340 doanh nghiệp xuất khẩu đá ốp lát với tổng kim ngạch xuất khẩu 60 triệu USD, trong đó chỉ có 8 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD, 76 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100.000 USD còn lại 256 doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu dưới 100.000 USD. Hình thành một cách đa dạng thị trường xuất khẩu đá ốp lát Việt Nam ở một số nước ở Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ, Châu Úc để hỗ trợ cho nhau bảo đảm tổng kim ngạch xuất khẩu ổn định.

GIỚI THIỆU VỀ ĐÁ BAZAN
Theo Wikipedia.org 
Bazan (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp basalte /bazalt/),[1] còn được viết là ba-zan,[2] ba-dan,[1] là một loại đá mácma phun trào (từ núi lửa) phổ biến, được hình thành từ sự làm nguội nhanh của dung nham bazan khi tiếp xúc hoặc rất gần bề mặt của một hành tinh đá hoặc mặt trăng. Lũ bazan mô tả sự hình thành một loạt các dòng dung nham bazan.
Định nghĩa

Đá bazan dạng cột ở công Viên Quốc gia Canyonlands Hoa KỲ
Theo định nghĩa, đá bazan là đá macma có cấu trúc ẩn tinh (hạt rất nhỏ) thường có 45-55% thể tích là silica (Hoạt2) và ít hơn 10% thể tích là khoáng vật chứa fenspat, ít nhất 65% của đá là felspat ở dạng plagioclase. Nó phổ biến nhất ở đá núi lửa loại trên trái Đất, là một phần quan trọng của lớp vỏ đại dương và đảo núi lửa ở giữa đại dương như Iceland, Réunion và quần đảo Hawaii. Đá bazan thường có tinh thể rất nhỏ hoặc chất nền thủy tinh núi lửa xen kẽ với các hạt có thể nhìn được. Khối lượng riêng của nó là 3.0 g/cm³.
Đá bazan được định nghĩa bởi thành phần khoáng chất và kiến trúc; mô tả tính chất vật lý không đề cập đến khoáng chất có thể không đáng tin cậy trong một số trường hợp. Đá bazan thường có màu xám đến đen, nhưng phong hoá nhanh chóng biến đổi thành màu nâu hoặc đỏ gỉ sắt do sự oxy hóa của khoáng chất mafic (giàu sắt) biến thành hematit và các sắt oxít khác. Mặc dù có đặc trưng là "tối màu", đá bazan cho thấy một loạt chỗ sáng hơn do các hoạt động địa hoá địa phương. Do phong hoá hoặc nồng độ cao của plagioclase, một số bazan có thể khá sáng màu, bề ngoài giống như andesit. Bazan có một kết cấu tinh thể khoáng chất rất nhỏ do đá nóng chảy bị làm nguội quá nhanh làm cho các tinh thể khoáng chất lớn chưa kịp phát triển; nó thường có tính chất ban tinh, có chứa tinh thể lớn hơn (ban tinh) hình thành trước khi sự phun trào kịp đưa dung nham lên bề mặt, được ngập trong chất nền các tinh thể nhỏ hơn. Những ban tinh thường là olivin hoặc plagioclase giàu calci, có nhiệt độ nóng chảy cao nhất trong các khoáng chất điển hình mà có thể kết tinh từ sự tan chảy.
Bazan có cấu tạo lỗ rỗng được gọi là bazan lỗ rỗng khi khối có hầu hết là rắn; khi phần lỗ rỗng chiếm hơn 1/2 thể tích của đá, nó được gọi là scoria. Cấu tạo này hình thành khi các khí hoà tan đi ra khỏi dung dịch với dạng bong bóng bởi vì khi mácma đi lên gần bề mặt áp suất giảm làm khí thoát ra, nhưng đang bị mắc kẹt do dung nham nguội nhanh trước khi các chất khí có thể thoát ra được.
Thuật ngữ bazan thỉnh thoảng được áp dụng cho đá xâm nhập với thành phần đặc trưng của đá bazan, nhưng có thành phần chất nền hạt to hơn thường được gọi tắt là diabaz (còn gọi là Dolerit) hoặc, khi to hơn nữa (tinh thể hơn 2 mm), là gabro. Gabro 

thường được bán trên thị trường thương mại như "đá granit đen"

Cột bazan tại Szent György Hill, Hungary

Bazan thủng lỗ ở miệng núi lửa Hoàng Hôn, Arizona, Mỹ
Trong thời kỳ liên đại thái cổ, Hoả thành và đầu Nguyên sinh của lịch sử Trái Đất, các chất hóa học của mắc-ma phun trào khác nhau đáng kể so với ngày nay, do vỏ chưa trưởng thành và sự khác biệt quyển mềm. Những tảng đá núi lửa siêu mafic, với thành phần silic (SiO2) dưới 45% thường được phân loại là komatiit.

 

Các loại

Khối lớn phải làm nguội chậm để hình thành các cột đa giác kết nối với nhau ở Giant'sCauseway, Bắc Ireland

Gần Bazaltove, Ukraine
Bazan tholeiit tương đối giàu silica và ít natri. Bao gồm hầu hết bazan ở đáy đại dương, các đảo đại dương lớn nhất, và lũ bazan như ở cao nguyên Sông Columbia.
Bazan tương đối giàu silica và ít titan. Đá Bazan trong một số trường hợp được phân loại theo lượng titan (Titan) của chúng. Bazan nhiều Ti và ít Ti đã được phân biệt ở Bẫy Paraná và Etendeka[3] và bẫy Emeishan.[4]
Bazan ở sống núi giữa đại dương là bazan tholeiit thường chỉ phun trào tại sống núi đại dương có đặc trưng là ít các yếu tố không tương thích.[5][6]
Bazan giàu nhôn có thể bảo hòa hoặc quá bảo hòa silica. Nó có hơn 17% alumina (Al2O3) và có thành phần trung gian giữa tholeiit và bazan kiềm; thành phần tương đối giàu nhôm tùy thuộc vào loại đá không có ban tinh plagioclase.
Bazan kiềm tương đối ít silica và giàu natri. Nó là loại chưa bảo hòa silica và có thể chứa felspatoid, fenspat kiềm và phlogopit.
Boninit là một hình thức của bazan chứa nhiều magnesi thường được phun trào ở các bồn trũng sau cung, đặc trưng bởi lượng titan thấp.
Bazan ở hải đảo
Bazan Mặt Trăng
Sự xuất hiện
Trên Trái Đất, hầu hết các đá bazan macma được hình thành bằng cách giải nén nóng chảy của vỏ manti. Bazan thường bùng nổ trên Io- mặt trăng lớn thứ ba của sao Mộc, và cũng đã hình thành trên mặt trăng, sao Hỏa, sao Kim, và tiểu hành tinh Vesta.
Các phần vỏ của các mảng kiến tạo đại dương được cấu tạo chủ yếu từ đá bazan, được tạo ra từ sự phun trào từ lớp manti phía dưới các rãnh đại dương.

 

Thạch học

Ảnh hiển vi của một hạt cát núi lửa; hình ảnh trên là ánh sáng phân cực phẳng, hình ảnh phía dưới là ánh sáng phân cực chéo, kích thước hộp màu trắng là 0,25 mm.

Lưu ý plagioclase "microlit" trắng trong ảnh ánh sáng phân cực chéo, bao quanh bởi thủy tinh núi lửa hạt rất nhỏ.
Các khoáng vật của đá bazan được đặc trưng bởi sự vượt trội của fenspat plagioclase và pyroxen. Olivin cũng có thể là một thành phần quan trọng. Khoáng vật phụ xuất hiện với số lượng tương đối nhỏ bao gồm các oxit sắt và sắt oxit titan, như magnetit, ulvospinel, và ilmenit. Bởi vì sự hiện diện của khoáng chất oxit như vậy, bazan có thể có được từ trường mạnh khi nó nguội đi, và các nghiên cứu cổ địa từ đã sử dụng rộng rãi đá bazan.
Trong bazan tholeiit, pyroxen (augit và orthopyroxen hoặc pigeonit) và plagioclase giàu calci là khoáng chất ban tinh phổ biến. Olivin cũng có thể là một ban tinh, và hiện nay, có thể có vành pigeonit. Các chất nền chứa thạch anh hoặc tridymit hoặc cristobalit. Olivin tholeiit có augit và orthopyroxen hoặc pigeonite với olivin dồi dào, nhưng olivin có thể có vành pyroxen và dường như không thể có mặt trong chất nền. Đáy đại dương bazan, phun trào ban đầu tại rãnh đại dương là đặc trưng cho việc có ít các yếu tố không tương thích.
Bazan kiềm thường có tổ hợp khoáng chất thiếu orthopyroxen nhưng chứa olivin. Ban tinh Feldspar thường có thành phần là labradorit đến andesin. Augit giàu titan so với augit trong bazan tholeiit. Các khoáng chất như fenspat kiềm, leucit, nephelin, sodalit, phlogopit mica, và apatit có thể có mặt trong chất nền.
Bazan có ranh giới nhiệt độ lỏng và rắn cao - giá trị ở bề mặt là 1200 °C (ranh giới lỏng) và gần hoặc dưới 1.000 °C (ranh giới nóng); các giá trị này cao hơn so với đá macma thông thường.
Phần lớn tholeiit được hình thành vào khoảng 50–100 km sâu bên trong lớp manti. Nhiều bazan kiềm có thể được hình thành ở độ sâu lớn hơn, có lẽ sâu đến 150–200 km. Nguồn gốc của bazan giàu nhôm vẫn còn gây tranh cãi, với sự bất đồng về viẹc nó có nguồn gốc từ tự tan chảy hay các loại đá bazan khác phân đoạn.[7]:65
Địa hoá
So với các đá macma phổ biến nhất, thành phần của bazan giàu MgO và CaO và ít oxit SiO2 và kiềm(Na2O + K2O), phù hợp với bảng phân loại TAS.
Basalt thường có thành phần gồm 45-55% trọng lượng là SiO2, 2-6% trọng lượng là kiềm, 0,5-2,0% trọng lượng là TiO2, 5-14% trọng lượng là FeO và 14% trọng lượng trở lên là Al2O3. Thành phần CaO là thường gần 10% trọng lượng, MgO thường trong khoảng 5-12% trọng lượng.
Bazan chứa nhiều nhôm có thành phần 17-19% trọng lượng là Al2O3; boninit thành phần magnesi lên đến 15 phần trăm MgO. Bazan chứa khoáng chất felspat hiếm ở đá giàu đá, giống như bazan kiềm, có thể có thành phần Na2O + K2O chiếm 12% hoặc nhiều hơn.
Sự phong phú của nhóm lanthan hoặc các thành phần đất hiếm có thể là một công cụ chẩn đoán hữu ích để giúp giải thích lịch sử của sự kết tinh khoáng như tan chảy nguội. Đặc biệt, sự phong 

phú tương đối của europi so với các loại đất hiếm khác thường là cao hơn hoặc thấp hơn rõ rệt, và được gọi làsự bất thường europium. Nó phát sinh vì Eu2+ có thể thay thế cho Ca2+ trong plagioclase fenspat, không giống như bất kỳ các nguyên tố nào khác trong nhóm lanthan, mà chỉ có xu hướng tạo ra cation 3+.
Tỷ lệ đồng vị của nguyên tố như stronti, neodymi, chì, hafni, và osmi trong bazan đã được nghiên cứu nhiều để tìm hiểu về sự tiến hóa của lớp vỏ Trái Đất. Tỷ lệ đồng vị của khí hiếm, chẳng hạn như 3He/4He, cũng có giá trị lớn: ví dụ, tỷ lệ của bazan nằm trong khoảng 6-10 ở núi giữa đại dương, nhưng lên đến 15-24 hoặc nhiều hơn nữa cho bazan ở biển đảo được cho là có nguồn gốc từ chùm manti.
Đá tham gia nóng chảy từng phần có thể bao gồm cả peridotit và pyroxenit (ví dụ, Sobolev et al., 2007).
Hình thái và kết cấu

Một dòng dung nham bazan hoạt động


Các hình dạng, cấu trúc và kết cấu của đá bazan góp phần chẩn đoán cách thức và nơi phun trào - là loại nổ lớn hay di chuyển từ từ thành dòng như ở Hawaii
Phun trào trên không gần mặt đất
Bazan phun trào trên không chia thành ba loại khác biệt của dung nham núi lửa: scoria; tuff hoặc cinder (dăm kết); và dung nham chảy.
Bazan trên đỉnh của dòng dung nham và gò hình nón sẽ thường xuyên được bơm khí, tạo ra kết cấu "sủi bọt" cho đá. Than bazan thường màu đỏ, màu của sắt bị oxy hóa từ sự phong hoá khoáng sản giàu chất sắt như pyroxen.
Loại Lung nham của dòng chảy khối ô vuông, than và đá dăm kết, dung nham bazan nhớt phổ biến ở Hawaii. Pāhoehoe là một chất lỏng dạng bazaz nóng mà có xu hướng tạo thành lớp mỏng nham thạch nóng chảy lấp vào chỗ trũng và đôi khi tạo thành hồ dung nham. Hang dung nham là đặc điểm phổ biến của các vụ phun trào pahoehoe.
Đá tuff hoặc đá vụn núi lửa là hiếm nhưng không phải không có. Thông thường bazan quá nóng và chất lỏng làm gia tăng đủ áp lực để tạo thành dung nham phun trào bùng nổ nhưng đôi khi điều này sẽ xảy ra bằng cách giữ nham thạch trong núi lửa và tích tụ khí núi lửa. Núi lửa Mauna Loa Hawaii phun trào theo cách này trong thế kỷ 19, cũng như núi Tarawera, New Zealand phun trào năm 1886. Núi lửa Maar là điển hình của tro bazan nhỏ, hình thành do phun trào bazan qua lớp vỏ, tạo thành một lớp bazan hỗn hợp và tường đá dăm kết và một cấu trúc tro bazan hình quạt từ núi lửa
Cấu trúc đá hạnh nhân phổ biến trong các di vật có lỗ hổng và các kết tinh rất đẹp của zeolit, thạch anh hoặc calcit thường được tìm thấy.

 

Cột bazan

cột bazan nứt ở Thổ Nhĩ Kì


Trong quá trình làm nguội của dòng dung nham, những vết nứt do sự co lại hình thành. Nếu một dòng chảy nguội đi khá nhanh, lực co đáng kể. Trong khi một dòng chảy có thể co lại theo chiều dọc mà không bị gãy, nó không có thể không dễ dàng co lại theo chiều ngang trừ khi các vết nứt hình thành; mạng lưới các vết nứt phát triển dẫn đến sự hình thành các cột. Cấu trúc liên kết của các cột này có thể được phân loại rộng là một mạng di động ngẫu nhiên. Những cấu trúc chủ yếu là hình lục giác ở mặt cắt ngang, nhưng đa giác với 3-12 hoặc nhiều góc gơn có thể được quan sát thấy. Kích thước của các cột phụ thuộc lỏng lẻo vào tỷ lệ làm lạnh; làm lạnh rất nhanh có thể dẫn đến cột có đường kính <1 cm, trong khi làm lạnh chậm có nhiều khả năng để tạo ra các cột lớn.
Phun trào dưới đại dương

Gối bazan ở đáy biển nam Thái Bình Dương

Gối bazan trồi lên ở Ý


 

Gối bazan
Khi bazan phun trào dưới nước hoặc chảy ra biển, tiếp xúc với nước làm nguội bề mặt dung nham tạo thành một hình dạng gối đặc biệt. Kết cấu "Gối" này rất phổ biến ở các dòng bazan dưới nước và giúp chẩn đoán môi trường phun trào dưới nước khi phân tích đá cổ xưa. Gối thường bao gồm một lõi tinh thể rất nhỏ với một lớp vỏ thủy tinh và có kết nối xuyên tâm. Kích thước của một gối thay đổi từ 10 cm đến vài mét.
Khi dung nham pahoehoe đi vào biển nó thường tạo ra gối bazan. Tuy nhiên, khi ở đại dương nó tạo thành một vùng hình nón ven biển, sự tích tụ tro và mảnh vỡ núi lửa hình nón hình thành khi dung nham đi vào nước và tạo ra trận nổ hơi.
Đảo Surtsey ở Đại Tây Dương là một ngọn núi lửa bazan mà phun trào trên bề mặt đại dương vào năm 1963. Giai đoạn đầu của vụ phun trào Surtsey tạo ra nổ lớn, vì macma khá ẩm ướt, làm đá bị thổi ra ngoài bằng hơi nước sôi để tạo thành tro núi lửa và than hình nón.
Thủy tinh núi lửa có thể có mặt, đặc biệt là khi dòng dung nham bị lạnh nhanh, và thường (nhưng không phải độc nhất) gắn liền với phun trào dưới nước.
Gối bazan cũng được tạo ra trong sự phun trào của núi lửa cận băng hà.
Sự sống ở đá bazan
Các tính năng ăn mòn phổ biến của đá bazan núi lửa dưới nước cho thấy rằng hoạt động của vi sinh vật có thể đóng một vai trò quan trọng trong sự trao đổi chất giữa đá bazan và nước biển. Lượng lớn Fe (II), Mn (II), có mặt trong các đá bazan cung cấp nguồn năng lượng tiềm năng cho vi khuẩn. Một số vi khuẩn làm oxy hóa Fe(II) được nuôi cấy từ bề mặt sắt-sulfat cũng có thể phát triển ở đá bazan.[8] Vi khuẩn oxy hóa Fe và Mn đã được nuôi cấy từ bazan ngầm ở cửa biển Loihi.[9] Các tác động của vi khuẩn trên thay đ
ổi thành phần hóa học của thủy tinh bazan (và lớp vỏ đại dương) và nước biển cho thấy những tương tác này có thể dẫn đến một ứng dụng của miệng phun thủy nhiệt với nguồn gốc của sự sống.

Phân bố

Bẫy Paraná, Brazil
Bazan là một trong những loại đá phổ biến nhất trên thế giới. Bazan là đá tiêu biểu nhất của vùng macma lớn. Những nơi xuất hiện lớn nhất của bazan là ở đáy biển mà gần như hoàn toàn được tạo bởi bazan. Bazan trên mực nước biển phổ biến ở đảo núi lửa và xung quanh vành đai cung núi lửa, đặc biệt những nơi trên lớp vỏ mỏng. Tuy nhiên, khối lượng lớn nhất của bazan là ở lã bazan trên đất liền. bazan lũ lục địa được biết là tồn tại trong Bẫy Deccan ở Ấn Độ, nhóm Chilcotin ở British Columbia, Canada, Bẫy Paraná ở Brasil, Bẫy Siberia ở Nga, miền bazan Karoo ở Nam Phi, cao nguyên Sông Columbia của Washington và Oregon.
Nhiều quần đảo và các đảo quốc có hầu hết đá nền của nó được tạo thành bởi bazan do chúng ở trên các núi lửa ví dụ như Iceland và Hawaii.
Bazan Tiền Cambri cổ đại thường chỉ được tìm thấy trong vùng uốn nếp và đứt gãy nghịch, và thường bị biến chất rất nặng. Chúng được gọi là vành đai đá màu lục, bởi vì sự biến chất cấp thấp của đá bazan tạo ra clorit, actinolit, epidote và các khoáng chất màu xanh lá cây khác.
Bazan ở mặt trăng và sao hoả

Bazan olivin mặt trăng thu thập bởi tàu Apollo 15.


Các vùng tối có thể nhìn thấy trên mặt trăng, hay còn gọi là vùng Maria ở mặt trăng, là vùng đồng bằng của các dòng dung nham bazan. Những tảng đá đã được lấy mẫu bởi chương trình Apollo có người lái, chương trình robot Luna của Nga.
Bazan mặt trăng khác với bazan trên đất liền chủ yếu ở thành phần chất sắt cao, thường có khoảng từ 17 đến 22% trọng lượng là FeO. Họ cũng có nồng độ titan đa dạng (hiện diện trong ilmenite),[10] từ 1 wt% TiO2 đến khoảng 13 wt.%. Theo truyền thống, bazan mặt trăng đã được phân loại theo thành phần titan của chúng, với các loại là giàu Ti, ít Ti và rất ít Ti. Tuy nhiên, bản đồ địa hóa toàn cầu của titan thu được từ sứ mệnh Clementine chứng minh rằng phần maria của mặt trăng có một sự liên tục của hàm lượng titan, và nồng độ cao nhất có ít nhất.
Bazan mặt trăng cho thấy kết cấu và khoáng học kỳ lạ, đặc biệt là biến chất do sốc, thiếu của quá trình oxy hóa điển hình của bazan trên mặt đất, và hoàn toàn thiếu hydrat hóa. Trong khi hầu hết bazan của mặt trăng đã phun trào khoảng 3 đến 3,5 tỷ năm trước đây, các mẫu cổ nhất có thể lên đến 4,2 tỷ tuổi, và dòng trẻ nhất, dựa trên phương pháp tính thời gian bằng cách đếm miệng núi lửa, được ước tính đã phun trào chỉ 1,2 tỷ năm trước.
Bazan cũng là một loại đá phổ biến trên bề mặt của sao Hỏa, được xác định bởi dữ liệu được gửi trở lại từ bề mặt của hành tinh này,[11] và bởi thiên thạch sao Hỏa.
Tại Việt Nam loại đá này phân bố chủ yếu các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên như Bình Định, Gia Lai, Kom Tum, Quảng Ngãi… Phía Bắc, các đá Bazan có diện tích hẹp, nằm rải rác ở một số khu vực thuộc tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và một số điểm ở Tây Bắc.

 

Sự biến đổi của bazan
Sự biến chất

Cấu trúc bazan ở Namibia


Bazan là loại đá quan trọng trong vành đai biến chất, vì chúng có thể cung cấp thông tin quan trọng về các điều kiện của sự biến chất trong vành đai. Các nham tướng biến chất khác nhau được đặt tên theo các tập hợp khoáng chất và các loại đá được hình thành bởi bazan biến chất với nhiệt độ và áp suất khác nhau. Bao gồm các nham tướng:
- Đá phiến lam
- Eclogit
- Granulit
- Đá phiến lục
- Zeolit
Bazan biến chất là vật chủ quan trọng cho việc hình thành một loạt các mỏ quặng nhiệt dịch, bao gồm mỏ vàng, mỏ đồng, mỏ quặng sulfide núi lửa lớn và các loại khác

 

Phong hoá
So với các loại đá khác được tìm thấy trên bề mặt của Trái Đất, bazan phong hoá tương đối nhanh. Thường các khoáng chất giàu chất sắt bị oxy hóa nhanh trong nước và không khí, nhuộm cho đá một màu nâu đỏ của oxit sắt (gỉ). Phong hóa hóa học cũng giải phóng ra các cation dễ dàng hòa tan trong nước như calci, natri và magnesi, cung cấp cho vùng nhiều bazan chất chống axit hoá. Calci được giải phóng ra từ bazan kết hợp với CO2 từ khí quyển tạo thành CaCO3 nên có tác dụng giảm CO2. Nhưng phải hiểu rõ thêm rằng chính việc phun trào bazan thường thải ra rất nhiều CO2 vào khí quyển từ khí núi lửa.
Ứng dụng
Bazan được sử dụng trong xây dựng, làm nhà đá cuội (từ đá bazan dạng cột) và trong việc xây tượng. Bazan phun trào giúp chế tạo len khoáng chất, được cho là một cách giữ nhiệt tuyệt vời.
Carbon cô lập trong bazan đã được nghiên cứu như là một phương tiện loại bỏ cacbon dioxide, được tạo ra do sự công nghiệp hóa của con người, từ khí quyển. Bazan hình thành dưới nước, nằm rải rác ở vùng biển trên địa cầu, có lợi ích như là một rào cản đối với việc giải phóng CO2 vào khí quyển .

ĐIỀU KIỆN THÀNH TẠO CÁC ĐÁ BAZAN TÂY NGUYÊN, VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN KHOÁNG VẬT
NGUYỄN VIẾT Ý, NGÔ THỊ PHƯỢNG, PHẠM THỊ DUNG, TRẦN HỒNG LAM, HOÀNG VIỆT HẰNG
Viện địa chất, Viện KH&CNVN, 84,Phố Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội
 

Tóm tắt: Trên bán đảo Đông Dương, Việt Nam là lãnh thổ có lượng đá bazan Kainozoi lớn hơn cả. Chúng tập trung chủ yếu ở khu vực Tây Nguyên.

Các khoáng vật tạo đá chính trong bazan Tây Nguyên gồm: olivin; orthopyroxen, clinopyroxen, plagioclas, một lượng nhỏ amphibol và biotit.
Dựa vào dạng tồn tại và thành phần hóa học, olivin, trong các đá bazan TNVN được phân ra làm 2 nhóm; orthopyroxen: 3 nhóm; clinopyroxen: 3 nhóm và amphibol: 2 nhóm.
Olivin (Ol) thuộc nhóm 1 gồm Nod-Ol và Xeno-Ol có hàm lượng MgO dao động trong khoảng hẹp (47-51 %), hàm lượng FeO khá ổn định (8-11%), đồng thời có hàm lượng NiO cao (0,32- 0,44 %). Olivin thuộc nhóm 2 gồm các Pheno-Ol, rất phổ biến trong các đá bazan kiềm và trong các thể tù gabronorit olivin. Chúng khác biệt với nhóm thứ nhất ở chỗ hàm lượng MgO biến thiên liên tục trong khoảng 27-44%, FeO giảm từ 25 đến 18%, trong khi đó NiO tăng từ 0,01 đến 0,32%.
Orthopyroxen (Opx) thuộc nhóm 1 tồn tại trong các bao thể lerzolit có hàm lượng MgO thay đổi trong khoảng hẹp (khoảng 26%), FeO khá cao (~14%), Al2O3 cao nhất (5-5,4%), Cr2O3 (0,2%), NiO (0,02- 0,04%).
 Opx nhóm 2 nằm trong các đá đolerit, có hàm lượng MgO cao hơn nhóm thứ nhất (28-29%); FeO thấp hơn (12%); Cr2O3= 0,2-0,5%, Al2O3 thấp nhất (1-2%), hàm lượng NiO hoàn toàn tương đồng với nhóm thứ nhất.
Opx nhóm 3 phân bố trong các đá có thành phần tương đồng với gabronorit trong tổ hợp cộng sinh với Cpx + Pl ± Ol . Các đá này tồn tại dưới dạng các thể tù trong bazan kiềm. Hàm lượng MgO trong Opx nhóm 3 cao nhất so với các nhóm trên (32-35%); sắt thấp nhất (5-7%); NiO cao nhất (0,07-0,15%), đồng thời Cr2O3 cũng có giá trị cao nhất.
Clinopyroxen (Cpx) trong các bao thể werlit spinel và lerzolit có hàm lượng nhôm rất cao (5,58 - 8,73%), nghịch biến với nó là hàm lượng MgO thấp (14-11,77%), hàm lượng các nguyên tố khác ít dao động (ví dụ FeO), hoặc dao động trong khoảng rộng, chẳng hạn như TiO2 và Cr2O3. Cpx trong các ban tinh có hàm lượng nhôm thay đổi từ 3,70 đến 7,36% (do tính phân đới), trong khi đó hàm lượng MgO thay đổi từ 12,8 đến 16,17%, Cpx trong phần nền của bazan và trong các đá đolerit khác biệt với hai loại trên ở hàm lượng nhôm rất thấp (1-1,45%), hàm lượng FeO thay đổi từ 13,92 đến 16,72, MgO dao động trong khoảng hẹp, mối tương quan nghịch biến giữa MgO và Al2O3 không rõ.
Amphibol (Am) có hai nguồn gốc: nguyên sinh và thứ sinh. Am nguyên sinh (nhóm 1) tồn tại trong bazan TNVN dưới dạng các xenocrist. Chúng có hàm lượng Al2O3 cao (11,31 - 12,86%), TiO2 = 2-8,11%, và hàm lượng SiO2 dao động trong khoảng 38-41%.
Am nhóm 2 phân bố trong phần nền của bazan hoặc trong một vài bao thể lerzolit. Hình dạng tinh thể và tương quan với các khoáng vật cộng sinh cho thấy chúng rất có thể hình thành do quá trình biến chất trao đổi xẩy ra vào giai đoạn muộn hơn của hoạt động magma bazan. Thành phần hóa học của các Am này khác biệt hẳn so với nhóm 1. Hàm lượng nhôm thấp (Al2O3 = 5,51-8,76%), TiO2 thấp (0,6- 1%); SiO2=46-51%.
 Điều kiện P-T thành tạo của các magma bazan kiềm được xác định là: P~ 23 kbar, T~ 1100oC. Đối chiếu với một số kết quả nghiên cứu của các tác giả khác [7, 9, 19], các tác giả bài báo cho rằng độ sâu thành tạo của magma bazan có thể sâu hơn và không loại trừ khả năng mang kim cương của chúng.
Các tác giả cũng lưư ý rằng, các đá bazan TNVN, đặc biệt là bazan kiềm, chứa khá nhiều thể tù thành phần rất đa dạng và chắc chắn có nguồn gốc khác nhau. Sự có mặt của chúng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả phân tích các mẫu đá tổng, vì vậy cần phải thận trọng khi đưa ra các mô hình thạch luận dựa trên các số liệu thạch địa hóa.

MỞ ĐẦU
Hoạt động magma Kainozoi phổ biến rất rộng rãi không chỉ trong phạm vi Đông Dương, mà còn phát triển trên nhiều khu vực khác thuộc lục địa châu Á. Một khối lượng khổng lồ các đá phun trào có thành phần chủ yếu là bazan đã hình thành trên các lãnh thổ, kéo dài từ vùng Sikhote Alin (Đông Nga), Mông Cổ, bán đảo Triều Tiên qua Đông Trung Quốc đến tận các bán đảo Đông Dương, Malaysia... Tại khu vực Đông Dương, Việt Nam là lãnh thổ có lượng đá bazan Kainozoi lớn hơn cả, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên, vùng ven bờ biển Đông, ngoài ra còn một lượng nhỏ ở phía Bắc Bộ và Trung Bộ, phân bố trên diện tích ~32000 km2.
Một đặc điểm rất quan trọng khiến bazan Kainozoi được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu là chúng mang các đá quý (saphir, rubi, zircon, spinel) rất có giá trị kinh tế.
Kết quả xác định tuổi tuyệt đối của nhiều tác giả trong nước và nước ngoài cho thấy các đá bazan Tây Nguyên Việt Nam (TNVN) có khoảng tuổi kéo dài từ ~17 Tr.n. đến năm 1923 [1, 3, 10, 17].
Căn cứ vào thành phần các nguyên tố chính, hoạt động magma bazan khu vực nghiên cứu được chia làm hai loạt: loạt sớm (khoảng 17 đến 6 Tr.n.) có thành phần chủ yếu là tholeit thạch anh, lượng bazan kiềm không đáng kể; loạt muộn (khoảng 6 Tr.n. đến hiện tại) có bazan kiềm chiếm đa số. Trong quá trình hoạt động có nhiều đợt ngưng nghỉ, có những đợt ngưng nghỉ kéo dài trên 1 Tr.n.
Đặc điểm thành phần nguyên tố đồng vị cho thấy bazan TNVN mang dị thường Dupal (206Pb/204Pb thấp, 208Pb/204Pb cao). Đây là một trong những vấn đề được nhiều nhà địa chất quan tâm giải thích, tuy vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất.
Điều kiện thành tạo các đá bazan đã và đang được các nhà địa chất xem xét theo ba hướng:
1- Môi trường kiến tạo [1, 2, 10, 17, 18, 21-23, 26].
2- Bản chất của manti nguồn: dựa trên các số liệu về nguyên tố chính, nguyên tố vết và đồng vị [11].
3- Điều kiện P-T thành tạo các magma bazan trên cơ sở nghiên cứu thành phần khoáng vật [19], hoặc dựa vào thành phần nguyên tố chính quy về MgO-15 [9].
Trong bài báo này, chúng tôi chú ý đi sâu vào một số đặc điểm thành phần khoáng vật tạo đá chính của các đá bazan TNVN, trên cơ sở đó tính toán điều kiện P-T thành tạo và những đặc điểm tiến hóa khác của chúng. Mẫu phân tích được lựa chọn bao gồm các khoáng vật trong những biến loại đá bazan, trong các bao thể và thể tù bị bắt giữ trong bazan, đặc biệt là bazan kiềm. Thành phần các khoáng vật tạo đá được phân tích bằng phương pháp vi dò trên máy CAMECA Kevex tại Trung tâm phân tích thuộc Viện Khoáng vật và Thạch học, Viện Liên hợp địa chất địa vật lý, Phân viện Sibiri, Viện Hàn lâm Khoa học Nga.

I. ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN KHOÁNG VẬT CỦA CÁC ĐÁ BAZAN TÂY NGUYÊN VIỆT NAM
Khoáng vật tạo đá chính trong hầu hết các đá bazan TNVN bao gồm: olivin (Ol), orthopyroxen (Opx), clinopyroxen (Cpx), plagioclas (Pl); khoáng vật thứ yếu: amphibol (Am), biotit (Bi), felspat kali (Fsp); khoáng vật phụ: magnetit (Mt), ilmenit (Ilm), spinel (Spl)
Các khoáng vật tạo đá chính cấu tạo nên hai nhóm đá, hình thành trong các môi trường và thời đoạn khác nhau: a- nhóm các thể tù bị magma bazan bắt giữ trong quá trình di chuyển lên bề mặt; b- nhóm các đá bazan thực thụ (kết tinh trực tiếp từ magma bazan).
Tuy nhiên, trong thực tế nghiên cứu các đá magma bazan TNVN cần phải phân chia các thể tù ra các loại khác nhau và mỗi loại rõ ràng có ý nghĩa khoa học và thực tiễn khác nhau. Cho đến nay, nội dung của chuyên từ thể tù (xenolith) vẫn còn được hiểu khác nhau. Một số tác giả xem chúng là những thể đá ngoại lai có kích thước khác nhau từ một vài cm3 (hoặc nhỏ hơn) đến hàng m3 bị bắt giữ trong các đá phun trào hoặc xâm nhập khác thành phần, đôi khi cùng thành phần, nhưng có thời gian thành tạo khác nhau. Những khoáng vật riêng lẻ có nguồn gốc ngoại lai được bắt giữ theo cùng cơ chế với thể tù, có kích thước lớn, đôi khi rất tự hình (ví dụ như các tinh thể augit trong bazan TNVN có kích thước đến 10-15 cm theo chiều dài, anorthoclas có kích thước 2-5 cm, saphir, rubi và zircon có kích thước một vài mm đến 5-10 mm) không được coi là thể tù mà là megacrist theo một số tác giả, hoặc macrocrist theo một số tác giả khác. Sự hình thành các tinh thể gọi là megacrist (macrocrist) chưa rõ, một số người coi chúng là sản phẩm kết tinh từ magma bazan, một số người khác xem đó như các khoáng vật có nguồn gốc sâu và là hợp phần của manti nguồn. Ngoài ra, những phần khó nóng chảy của manti (thành phần tương đồng với nhóm periđotit) còn sót lại và bị bắt giữ trong các đá bazan, một số nguời gọi đó là bao thể (nodule), một số nguời khác vẫn gọi là thể tù.
Căn cứ vào thực tế nghiên cứu các thể tù trong bazan, đặc biệt là bazan kiềm TNVN, chúng tôi phân biệt các loại sau đây:
- Thể tù, với nội dung nêu trên mang tính bao quát nhất, dùng để chỉ chung tất cả những vật thể bị bắt tù trong các đá magma.
- Bao thể (nodule) là các thể tù đại diện cho phần còn sót lại của manti nguồn trong quá trình nóng chảy từng phần để tạo nên magma bazan, hoặc bị bắt từ các đá tường manti trong khi magma di chuyển lên bề mặt; chúng có thành phần tương đồng với các đá nhóm periđotit (lerzolit, werlit, pyroxenit...).
- Xenolit* bao gồm các đá có nguồn gốc ngoại lai, thành phần khác biệt với bazan hoặc tương tự bazan, nhưng có thời gian thành tạo sớm hơn (pha sớm) được magma bazan (pha muộn) bắt giữ trong quá trình di chuyển lên bề mặt. Như vậy xenolit khác với bao thể ở chỗ nó không đại diện cho manti. Tuy nhiên, thuật ngữ này được rất nhiều nhà nghiên cứu coi là đồng nghĩa với bao thể.
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
* Theo các Từ điển Địa chất, xenolit có nghĩa là “thể tù” (BBT).
- Macrocrist là các thể tù tồn tại dưới dạng đơn tinh thể (augit, anorthoclas...) kích thước lớn bị bắt tù trong các đá bazan. Một số tác giả xem rubi, saphir và zircon cũng là các macrocrist. Một số tác giả khác cho rằng macrocrist là sản phẩm kết tinh trực tiếp từ magma bazan.
- Xenocrist là những tinh thể có kích thuớc lớn so với các khoáng vật tạo nên phần nền trong bazan (5-10 mm), có phần rìa bị gặm mòn mạnh, đôi khi vỡ vụn. Đa số các nhà nghiên cứu xem xenocrist là các khoáng vật của manti. Trong các đá bazan vùng nghiên cứu xenocrist thường là olivin và pyroxen thoi, hiếm khi gặp pyroxen xiên. Trong trường hợp này xenocrist có nghĩa gần gũi với macrocrist, nhưng kích thước nhỏ hơn.
Tuy nhiên, việc phân chia các thể tù theo cách nêu trên chỉ mang tính tương đối, nhằm tạo nên sự thuận tiện trong khi mô tả. Thực chất vấn đề còn khá phức tạp, các khái niệm vẫn chưa rõ ràng, nhiều nội dung trùng lặp.
Sự có mặt của các thể tù với thành phần đa dạng đã lưu ý các nhà khoa học rằng, những kết quả phân tích hóa toàn phần các đá bazan trên vùng nghiên cứu rõ ràng không phản ánh thực chất thành phần magma nguyên sinh, bởi vì khi thu thập mẫu cho phân tích chúng ta không thể tách chúng ra khỏi bazan thực thụ.

Nhóm khoáng vật trực tiếp kết tinh từ magma bazan bao gồm các ban tinh và các khoáng vật cấu tạo nên phần nền của các đá bazan.
Đặc biệt trong các đá bazan còn gặp các tập hợp khoáng vật cấu tạo từ một hoặc vài loại khoáng vật có kích thước tương đối lớn, có ranh giới khá rõ nét so với phần nền, nhưng không có hiện tượng bị hòa tan, gặm mòn như các bao thể hoặc thể tù. Chúng thể hiện như các cụm khoáng vật, kết tinh hoàn hảo so với phần nền bao quanh. Để dễ phân biệt, chúng tôi tạm gọi chúng là các multicrist (đa tinh). Nguyên nhân hình thành nên các multicrist này không rõ, rất có thể chúng được hình thành trong điều kiện hóa lý cục bộ thuận lợi cho sự kết tinh hoàn hảo của các khoáng vật tương đồng với thành phần của bazan. Trong các đá bazan TNVN, các multicrist thường cấu tạo thuần khiết từ tập hợp các tinh thể plagioclas hoặc Cpx, hoặc đôi khi Pl+Cpx.
Từ các khái niệm trên, các khoáng vật tạo đá được gọi tên theo dạng tồn tại và để đơn giản hóa trong mô tả, chúng tôi ký hiệu bằng cách thêm các tiếp đầu ngữ, ví dụ: olivin trong bao thể được ký hiệu: Nod-Ol; olivin dưới dạng xenocrist: Xeno-Ol; orthopyroxen trong bao thể: Nod-Opx; ban tinh clinopyroxen: Pheno-Cpx; ban tinh olivin: Pheno-Ol...
Olivin là khoáng vật phổ biến nhất trong các đá bazan vùng nghiên cứu. Chúng tồn tại dưới dạng các xenocrist, ban tinh trong đá bazan và là hợp phần quan trọng của các bao thể. Về mặt thành phần có thể chia olivin ra hai nhóm có các đặc điểm khá khác biệt: nhóm thứ nhất gồm Nod-Ol và Xeno-Ol; nhóm thứ hai gồm Pheno-Ol. Nhóm thứ nhất có hàm lượng MgO dao động trong khoảng hẹp (47-51 %), hàm lượng FeO khá ổn định (8-11%), đồng thời có hàm lượng NiO cao (0.32- 0,44 %). Trên các biểu đồ Hình 1, 2, ta thấy chúng tạo nên một nhóm riêng biệt.

Hình 1. Tương quan hàm lượng MgO-FeO của Ol trong bazan TNVN

Hình 2. Tương quan hàm lượng MgO-NiO của Ol trong bazan TNVN


Sự tương đồng về thành phần giữa Nod-Ol và Xeno-Ol cho thấy chúng có chung nguồn gốc. Mặt khác Nod-Ol thường có mặt trong tổ hợp cùng với Opx+Cpx ± Spl là những tổ hợp được nhiều nhà khoa học thừa nhận là đặc trưng cho thành phần của manti trên.
Olivin thuộc nhóm thứ hai bao gồm các Pheno-Ol, rất phổ biến trong các đá bazan kiềm và trong các thể tù gabronorit olivin ở TNVN. Chúng khác biệt với nhóm thứ nhất ở chỗ hàm lượng MgO biến thiên liên tục trong khoảng 27-44%, FeO giảm từ 25 đến 18%, trong khi đó NiO tăng từ 0,01 đến 0,32% (xem Hình 1, 2). Điều này chứng tỏ chúng kết tinh trong điều kiện hóa lý biến đổi không mang tính đột biến. Nhận xét này dường như là nghịch lý đối với các magma bazan kiềm là các magma chứa nhiều chất bốc, do đó chúng thường tạo nên dạng phun nổ, nghĩa là điều kiện hóa lý thay đổi đột ngột. Để giải thích hiện tượng này chúng tôi cho rằng, có lẽ ở giai đoạn đầu, sau khi magma nguyên sinh được hình thành, chúng vận chuyển lên bề mặt với một tốc độ không quá lớn, nhưng luôn luôn ở trạng thái không cân bằng. Trong điều kiện như vậy, các khoáng vật Ol thế hệ khác nhau lần lượt được hình thành phù hợp với thành phần magma tàn dư và tới một lúc nào đó, khi các chất khí được giải phóng khỏi magma tạo nên áp suất đủ lớn mới gây ra phun nổ. Nếu áp suất không đủ lớn thì magma phun trào bình thường. Các magma phun lên trên bề mặt tồn tại dưới dạng "cháo đỗ". Chính vì vậy hiện tượng phun nổ không phải lúc nào cũng quan sát thấy trong các trường phân bố các đá magma bazan kiềm. Điều này còn được chứng minh bởi sự tồn tại các vành phản ứng kế tiếp nhau bao quanh các bao thể hoặc các xenocrist có kích thước lớn, tạo nên kiến trúc kiểu vành hoa.

Orthopyroxen là khoáng vật ít phổ biến hơn so với olivin, chúng có mặt trong các bao thể, thể tù, xenocrist, ban tinh và cả trong phần nền. Để so sánh, chúng tôi lựa chọn phân tích các khoáng vật Opx trong 3 dạng tồn tại: trong bao thể lerzolit; trong thể tù gabronorit và trong đolerit. Về thành phần, chúng được chia thành ba nhóm rõ rệt, phụ thuộc vào tổ hợp khoáng vật mà chúng cộng sinh, tương ứng với 3 dạng tồn tại.
Trên các biểu đồ Hình 3, 4, 5, 6, ta thấy các nhóm Opx nói trên khác biệt nhau ở hàm lượng MgO, NiO, Cr2O3, Al2O3 và FeO.

Hình 3. Tương quan hàm lượng MgO-FeO của Opx trong bazan TNVN

Hình 4. Tương quan hàm lượng MgO-NiO của Opx trong bazan TNVN


Nhóm thứ nhất bao gồm các khoáng vật Opx trong bao thể lerzolit. Ở đây, chúng có hàm lượng MgO thay đổi trong khoảng hẹp (khoảng 26%), FeO khá cao (~14%%), Al2O3 cao nhất (5-5,4%), Cr2O3 (0,2%), NiO (0,02- 0,04%). Trong bao thể lerzolit, Opx tổ hợp cộng sinh với Ol+Cpx ±Am.
Nhóm thứ hai có hàm lượng MgO cao hơn nhóm thứ nhất (28-29%); FeO thấp hơn = 12%; Cr2O3 = 0,2-0,5%, Al2O3 thấp nhất (1-2%); hàm lượng NiO hoàn toàn tương đồng với nhóm thứ nhất. Opx thuộc nhóm thứ hai nằm trong các đá đolerit, ở đây chúng thể hiện như các ban tinh.
 Opx phân bố trong các đá có thành phần tương đồng với gabronorit trong tổ hợp cộng sinh với Cpx + Pl ± Ol tạo nên nhóm thứ ba. Các đá này tồn tại dưới dạng các thể tù trong bazan kiềm. Rất có thể chúng là các thành tạo xâm nhập hoặc biến chất không có liên quan gì với các đá bazan chứa chúng, và cũng có thể chúng là đại diện cho đới bền vững plagioclas của manti trên. Phân tích thành phần Opx trong thể tù nói trên cho thấy chúng tạo nên một nhóm riêng biệt với hàm lượng MgO cao nhất (32-35%) so với Opx của các nhóm trên; sắt thấp nhất (5-7%); NiO cao nhất (0,07-0,15%), đồng thời Cr2O3 cũng có giá trị cao nhất
Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà địa chất cho thấy, hàm lượng nhôm trong các khoáng vật pyroxen nói chung và Opx nói riêng đồng biến với độ sâu thành tạo của chúng. Theo kết luận này thì các đá chứa Opx nhóm 1 (lerzolit) có độ sâu thành tạo lớn hơn cả, nhóm thứ hai (đolerit) độ sâu thành tạo thấp nhất, các đá gabronorit có độ sâu thành tạo trung bình.
Tương tự như vậy đối với NiO và Cr2O3. Sắt có xu thế ngược lại so với MgO, nghĩa là Opx sâu và nông đều chứa nhiều sắt, trong khi đó Opx độ sâu trung bình chứa ít sắt hơn cả. Đáng tiếc là chúng ta chưa có nhiều số liệu phân tích để khẳng định kết luận trên, nhưng đây là một vấn đề cần quan tâm, rất có thể giúp ta thực hiện bài toán ngược, nghĩa là từ tương quan hàm lượng các nguyên tố tạo khoáng khác so với Al2O3 trong pyroxen suy ra độ sâu thành tạo của các đá.
Clinopyroxen là khoáng vật khá phổ biến trong các đá bazan TNTN, chúng có mặt trong các bao thể, trong ban tinh, trong phần nền, trong các multicrist và, hiếm hơn, trong các xenocrist. Một đặc điểm đáng chú ý là Cpx thường thể hiện tính phân đới khá rõ rệt trong một số mẫu, đặc biệt trong các ban tinh hoặc trong các multicrist. Ví dụ trong một multicrist (mẫu số DS2), Cpx thể hiện tính phân đới qua sự biến đổi hàm lượng Al2O3 và MgO như sau (Bảng 1):

 

Bảng 1. Tính phân đới của Cpx trong multicrist

Các đới

Hàm lượng MgO (%)

Hàm lượng Al2O3 (%)

1

14,67

5,17

2

15,17

4,42

3

16,17

3,44

4

15,98

3,70

5

14,58

3,72

6

14,92

3,91

7

12,58

7,36

Ghi chú: Thứ tự các đới tính từ rìa hạt bên này sang rìa hạt bên kia
Qua bảng trên ta thấy từ nhân ra rìa, hàm lượng MgO giảm dần, đồng thời hàm lượng Al2O3 tăng dần. Nếu thừa nhận rằng hàm lượng nhôm tham gia vào thành phần pyroxen đồng biến với áp suất thành tạo thì ở đây dường như multicrist Cpx đang mô tả được hình thành trong điều kiện áp suất tăng dần. Như vậy, nguyên nhân hình thành các multicrist có lẽ là trong điều kiện áp suất cục bộ tăng dần. Nguyên nhân làm tăng áp suất cục bộ có thể là do sự tập trung thể lỏng, điều này được minh chứng bởi sự có mặt của các khoáng vật chứa thể lỏng như Bi trong một số multicrist, tuy nhiên không phải bao giờ cũng gặp. Sở dĩ có hiện tượng khi có mặt, khi vắng mặt các khoáng vật chứa thể lỏng trong các multicrist, theo suy nghĩ của chúng tôi, là do hai nguyên nhân sau: a) trường hợp thể lỏng được bảo tồn cho đến khi kết thúc quá trình kết tinh multicrist (khi nhiệt độ giảm xuống dưới nhiệt độ đông cứng), chính chúng sẽ gây ra biến chất trao đổi làm biến đổi các khoáng vật kết tinh trước, tạo nên các khoáng vật thứ sinh chứa thể lỏng; b) trường hợp thứ hai, áp suất tăng dần, tới một mức nào đó giảm đột ngột do thể lỏng được giải phóng khỏi hệ, quá trình biến chất trao đổi không xẩy ra và như vậy sẽ không có các khoáng vật chứa thể lỏng được hình thành. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng đây mới chỉ là những suy nghĩ mang tính suy đoán, vấn đề này phải được nghiên cứu sâu hơn nhằm giải thích sự có mặt các cụm khoáng vật khá tự hình nằm trong bazan TNVN.

Hình 5. Tương quan hàm lượng MgO-Cr2O3 của Opx trong bazan TNVN

Hình 6. Tương quan hàm lượng MgO-Al2O3 của Opx trong bazan TNVN


Clinopyroxen có thành phần thay đổi từ điopsiđ đến augit (Hình 7). Thành phần hóa học của Cpx phụ thuộc nhiều vào điều kiện thành tạo của chúng. Ở đây có thể phân chia Cpx ra các nhóm sau:
- Cpx trong các bao thể werlit spinel và lerzolit có hàm lượng nhôm rất cao (5,58 - 8,73%), nghịch biến với nó là hàm lượng MgO thấp (14% - 11,77%) hàm lượng các nguyên tố khác ít dao động (ví dụ FeO), hoặc dao động trong khoảng rộng, chẳng hạn như TiO2 và Cr2O3...
- Cpx trong các ban tinh có hàm lượng nhôm thay đổi từ 3,70 đến 7,36% (do tính phân đới), trong khi đó hàm lượng MgO thay đổi từ 16,17% đến 12,8%.
- Cpx trong phần nền của bazan và trong các đá đolerit, khác biệt với hai loại trên ở hàm lượng nhôm rất thấp (1-1,45%), đồng biến với nó là hàm lượng FeO thay đổi từ 13,92 đến 16,72, MgO dao động trong khoảng hẹp, mối tương quan nghịch biến giữa MgO và Al2O3 không rõ.
Qua đây ta thấy sự phân bố có tính quy luật của các nguyên tố hóa học trong Cpx phụ thuộc vào áp suất thành tạo, một lần nữa được thể hiện khá rõ rệt.
Amphibol là khoáng vật hiếm gặp trong bazan TNVN. Chúng chỉ gặp trong một số mẫu bazan kiềm và một vài bao thể. Sự có mặt của Am trong bazan chứng tỏ magma chứa nhiều chất bốc. Kết quả nghiên cứu lát mỏng cho thấy Am có thể có hai nguồn gốc: nguyên sinh và thứ sinh. Amphibol nguyên sinh (nhóm 1) là các khoáng vật tồn tại trong bazan TNVN dưới dạng các xenocrist, hình dạng tinh thể kéo dài, thường bị vát nhọn, kích thước 3-5 mm, nổi trội trong phần nền vi hạt, dưới một nicol có mầu vàng, đa sắc rõ (mẫu DL-025, DL-031). Đặc biệt là các khoáng vật này luôn luôn ngăn cách với phần nền bởi một riềm khá dầy vật chất không thấu quang mầu đen; rất có thể đây là sản phẩm tái nóng chảy khi Am rơi vào môi trường magma bazan. Những dấu hiệu thạch học vừa nêu cho thấy Am ở đây thể hiện như các xenocrist. Phân tích thành phần hóa học của các xenocrist này cho thấy chúng có hàm lượng Al2O3 cao (11,31 - 12,86%), TiO2 = 2 - 8,11%, trong khi đó hàm lượng SiO2 thấp hơn so với Am nhóm 2 mô tả ở dưới (dao động trong khoảng 38 đến 41%).

 

Hình 7. Biểu đồ phân loại pyroxen trong bazan TNVN

Hình 8. Tương quan TiO2-Al2O3-SiO2 của Am trong bazan TNVN

Ghi chú: Chữ số tương ứng với các nhóm Am mô tả trong bài
Am thuộc nhóm thứ hai phân bố trong phần nền của bazan hoặc trong một vài bao thể lerzolit. Hình dạng tinh thể và tương quan với các khoáng vật cộng sinh cho thấy chúng rất có thể được hình thành do quá trình biến chất trao đổi xẩy ra vào giai đoạn muộn hơn của quá trình hoạt động magma bazan. Thành phần hóa học của các Am này khác biệt hẳn so với nhóm mô tả trên. Hàm lượng nhôm thấp hơn (Al2O3 = 5,51-8,76%), TiO2 thấp (0,6- 1%); SiO2 = 46-51%. Sự có mặt của các biến loại Am cao nhôm cho thấy chúng có nguồn gốc sâu và rất có thể là hợp phần của manti nguồn giầu. Sự khác biệt giữa hai nhóm Am trong bazan thể hiện trên biểu đồ Hình 8, 9, 10, 11, 12.

Hình 9. Tương quan hàm lượng SiO2 -MgO của Am trong bazan kiềm TNVN (ghi chú như hình 8)

Hình 10. Tương quan hàm lượng Cr2O3 - MgO của Am trong bazan kiềm TNVN (ghi chú như hình 8)

Biotit là khoáng vật khá phổ biến trong các đá bazan vùng nghiên cứu, đặc biệt trong các bazan kiềm ở mỏ đá Núi Boong gần miệng núi lửa cổ Hàm Rồng (Pleiku). Chúng có mặt trong các bazan đặc sít, bazan bọt và trong một số multicrist. Tinh thể Bi trong đá có dạng tấm kéo dài, đa sắc mạnh: theo Ng có mầu nâu, Np mầu nâu nhạt. Một đặc điểm đáng chú ý là trong bazan bọt Bi thường phân bố cạnh các bọt khí, chứng tỏ sự hình thành chúng gắn liền với sự có mặt của các thể lỏng. Ở hầu hết các mẫu lát mỏng, Bi còn rất tươi, hầu như không bị biến đổi, điều này

Hình 11. Tương quan hàm lượng MgO-FeO của Am trong bazan kiềm TNVN (Ghi chú như Hình 8)

Hình 12. Tương quan hàm lượng MgO-MnO của Am trong bazan kiềm TNVN (ghi chú như Hình 8)

cho thấy chúng được hình thành trong giai đoạn muộn của quá trình kết tinh magma bazan hoặc thay thế các khoáng vật kết tinh trước như Cpx trong quá trình biến chất trao đổi. Thành phần hóa học của Bi tương đối đồng nhất trong tất cả các biến loại đá nghiên cứu, hàm lượng nhôm thay đổi trong khoảng hẹp (~13%); MgO = 16-17%; FeO = 9-10%; đặc biệt TiO2 rất cao (6-8%). Hàm lượng TiO2 cao có lẽ là do Bi hình thành trong điều kiện áp suất thấp.
Tóm lại, sự có mặt của Bi trong thành phần các đá bazan cho thấy magma ban đầu giầu kiềm. Cho đến nay, có nhiều quan điểm về nguồn gốc magma bazan kiềm. Đa số các nhà nghiên cứu thừa nhận sự hình thành magma này xẩy ra trong điều kiện mức nóng chảy từng phần vật chất manti thấp (5-10%), áp suất cao. Tuy nhiên, vai trò của manti nguồn đã được làm giầu và các quá trình khác như hỗn nhiễm vỏ, trộn lẫn magma chắc chắn cũng đóng vai trò không nhỏ trong sự hình thành các magma này.

 

II. NHIỆT ĐỘ VÀ ÁP SUẤT THÀNH TẠO MAGMA BAZAN KIỀM TNVN
Lượng hóa các điều kiện nhiệt độ và áp suất hình thành của dãy các đá magma trong một môi trường địa chất nhất định là một vấn đề rất có ý nghĩa không chỉ về khía cạnh khoa học, mà cả về thực tiễn, nhưng đồng thời cũng là một vấn đề hết sức nan giải, bởi lẽ chúng ta không thể trực tiếp đo đếm được trong tự nhiên. Mọi cố gắng của các nhà khoa học không thể giúp họ tiếp cận một cách chính xác những gì đã xẩy ra trong quá khứ, hoặc ở sâu dưới lòng đất, song ở chừng mực nào đó nó phản ánh một cách tương đối các điều kiện hóa lý đã khống chế sự hình thành các tổ hợp đá magma này hay khác, đặc biệt là tạo ra những cơ sở để so sánh giữa các tổ hợp đá với nhau.
Đối với các đá bazan, vấn đề quan trọng nhất là xác định được độ sâu và nhiệt độ hình thành các magma ban đầu. Thông tin chủ yếu về điều kiện hình thành magma ban đầu chứa đựng trong các bao thể, đây là những vật thể được xem như phần còn sót lại của manti nguyên thủy mà độ sâu và nhiệt độ tồn tại của nó chính là điều kiện P-T hình thành magma ban đầu. Chính vì vậy, ở đây chúng tôi quan tâm đặc biệt đến các tổ hợp khoáng vật trong các bao thể có thành phần tương ứng với werlit và lerzolit.
Kết quả tính toán nhiệt độ hình thành magma bazan kiềm ở TNVN dựa vào thành phần hóa học của Opx trong bao thể lerzolit được thể hiện ở Bảng 2.

 

Bảng 2. Nhiệt độ thành tạo magma bazan kiềm TNVN

Số hiệu
mẫu phân tích

P

T1oC

T2oC

DL2020-5-06

10

1048,30

990,63

 

20

1100,45

990,63

 

30

1152,61

990,63

 

40

1204,76

990,63

DL2020-5-10

10

1048,3

845,36

 

20

1100,45

845,36

 

30

1152,61

845,36

 

40

1204,76

845,36

DL2020-5-15

10

1048,30

887,36

 

20

 1100

887,13

 

30

1152,61

887,13

 

40

1204,76

887,13

Ghi chú: Nhiệt độ được tính toán dựa trên phần mềm PT- MAFIC; T1- nhiệt độ tính theo Brey & Kohler (1990): Ca-in-Opx (±26o); T2- nhiệt độ tính theo Witt - Eickschen & Seck (1991): Al/Cr -in - Opx.
Qua bảng này, ta thấy kết quả tính theo hai tác giả chênh lệch nhau khá rõ rệt, do đó để xác định được số liệu nào tiếp cận với thực tế hơn phải có sự kết hợp với các phương pháp khác. Từ cách tính nhiệt độ như trên, ta thấy T2 không phụ thuộc vào áp suất, trong khi đó T1 phụ thuộc vào áp suất rất rõ rệt. Vấn đề đặt ra là phải cố định được một trong hai đại lượng trên. Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi đã sử dụng biểu đồ tương quan giữa P-T và hàm lượng nhôm trong Spl và Opx để xác định áp suất thành tạo của chúng. Các khoáng vật Spl (thường là chromspinel) ở các bao thể được giữ lại trong bazan kiềm TNVN, theo kết quả phân tích của chúng tôi, có hàm lượng Al2O3 ~ 47%, trong khi đó Opx có lượng Al2O3 trung bình khoảng 5% (xem Bảng 2, 3). Biểu đồ vừa nêu trên cho thấy các bao thể tồn tại ở độ sâu khoảng 23 kbar. Kết quả này nhỏ hơn so với kết quả xác định áp suất theo tổ hợp khoáng vật Pl+Cpx+Qz (cho giá trị khoảng 27,84 kbar). Như vậy khi so sánh có thể nhận thấy rằng, nhiệt độ có thể chấp nhận được ở bảng trên là 1100oC.
Tóm lại, bằng cách tính toán nhiệt độ và áp suất trên cơ sở phần mềm P-T-MAFIC và đối sánh với các phương pháp khác, có thể kết luận rằng các magma bazan kiềm ở TNVN hình thành ở độ sâu ~ 80 km, nhiệt độ ~1100oC.

Bảng 3. Thành phần hóa học của Nod-Opx trong bao thể

Mẫu

FeO

MnO

Cr2O3

Na2O

MgO

SiO2

Al2O3

K2O

CaO

TiO2

NiO

Tổng

2020/5/06

13,69

0,221

0,17

0,168

26,84

52,82

5,04

0

0,974

0,116

0,053

100,09

2020/5/10

14,04

0,223

0,116

0,167

26,58

52,58

5,13

0,013

0,982

0,108

0,037

99,97

2020/5/15

13,72

0,192

0,145

0,172

26,29

52,51

5,46

0

0,916

0,099

0,027

99,53

Kết quả thu được của chúng tôi rất gần gũi với kết quả xác định của Phạm Tích Xuân và Nguyễn Xuân Hãn [19].
Bằng phương pháp so sánh thành phần bazan quy về Mg-15 với các dung thể thực nghiệm, Nguyễn Hoàng và M. Flower [12] kết luận: a) ở điều kiện khô P-T hình thành các magma kiềm là P< 4 GPa (40 kbar) T~ 1470oC (Xuân Lộc) đến P< 0,5 GPa (5 kbar), T~ 1400oC đối với các đá tholeiit thạch anh; b) ở điều kiện gần bão hòa nước P< 3,5 GPa (35 kbar), T~ 1400oC đối với các đá bazan kiềm và P~ 1,5 GPa (15 kbar) và T = 1350-1400oC đối với các đá tholeiit thạch anh (Đà Lạt, Phước Long). Theo các tác giả này, điều kiện gần bão hòa nước thích hợp hơn đối với các đá bazan TNVN vì: - các bazan này có hàm lượng nước cao; - áp suất nóng chảy tối thiểu phù hợp với điều kiện nóng chảy dưới lớp ranh giới cơ (MBL) đã được làm dầy; - các đường đẳng nhiệt 2-3oC/km (so với <1oC/km trong điều kiện khô) phù hợp với mô hình động lực thể lỏng. Cũng theo các tác giả này, nhiệt độ tiềm năng cao là do sự trồi lên của quyển mềm do va chạm (collision-extrusion) hơn là do thể magma trồi ở dưới sâu.

Bảng 4. Thành phần hóa học của spinel trong bao thể

Mẫu

FeO

MnO

Na2O

MgO

SiO2

Al2O3

Cr2O3

NiO

K2O

CaO

TiO2

Tổng

DL031/23

11,16

0,147

0

19,97

0,023

56,6

10,29

0,356

0

0

0,092

98,64

DL031/24

11,04

0,124

0,002

20,43

0,035

55,51

10,34

0,374

0

0

0,077

97,93

DL031/25

11,58

0,122

0,006

20,1

0,037

55,83

10,68

0,42

0

0

0,083

98,86

DL1613/1a

13,78

0,158

0,039

17,14

0

36,02

32,96

 

0

0

0,033

100,15

DL1613/3a

16,01

0,225

0,037

16,6

0

36,08

30,95

 

0

0

0,217

100,13

DL1613/3b

11,14

0,125

0,032

20,78

0

50,81

15,67

 

0

0

0,061

98,61

DL1613/3c

11,1

0,118

0,05

20,21

0

51,72

15,97

 

0,004

0

0,085

99,26

DLN1613/2a

10,84

0,109

0,036

20,66

0

52,92

14,69

 

0,006

0

0,067

99,32

DLN1613/2b

10,72

0,165

0,032

20,32

0

49,99

18,2

 

0

0,002

0,133

99,56

DLN1613a

12,63

0,188

0,039

18,21

0

43,77

26,37

 

0,004

0

0,128

101,34

DLN1613b

12,79

0,142

0,045

18,42

0

41,28

26,93

 

0,003

0

0,096

99,71

DLN1613c

15,53

0,234

0,018

16,17

0

28,09

39,33

 

0,006

0

0,131

99,5

Qua đây ta thấy các kết quả tính toán điều kiện P-T mà ở đó đã diễn ra quá trình nóng chảy từng phần manti để tạo nên các magma bazan TNVN tuy vẫn còn những chênh lệch khá lớn, nhưng dù sao vẫn không loại trừ khả năng mang kim cương của chúng nếu áp suất 35 kbar là chính xác. Khả năng này rất có thể, bởi vì trong các sa khoáng phân bố trên diện lộ của các đá bazan kiềm vùng Pleiku, đã phát hiện thấy các hạt granat có thành phần tương đồng với pyrop-almanđin (Pyr 55-63; Alm 22-28) tổ hợp với ilmenit và chromđioxit [7]. Các khoáng vật này rất có thể là hợp phần của các bao thể siêu mafic granat đã được mô tả ở một số công trình trước đây [13].
Đáng tiếc là trong tập hợp mẫu của chúng tôi chưa bắt gặp được các bao thể kiểu này. Tuy nhiên, sự có mặt của granat và macrocrist clinopyroxen cho phép suy nghĩ rằng độ sâu thành tạo của các magma bazan kiềm rất có thể sâu hơn so với tính toán của chúng tôi. Theo kết quả nghiên cứu của Wilshire và nnk [25] thì trong các thể tù periđotit đôi khi tìm thấy các mạch clinopyroxen có chiều dầy vài cm, kết quả đo áp suất cho thấy chúng hình thành dưới độ sâu ít nhất là 170 km trong manti. Đây cũng là một bằng chứng cho thấy độ sâu thành tạo các magma ban đầu có thể lớn hơn.
Tính toán áp suất thành tạo của amphibol có mặt trong thành phần bao thể lerzolit cho các kết quả ở Bảng 5.

Bảng 5. Điều kiện P-T thành tạo của Am trong bao thể

 

Số hiệu mẫu phân tích

P1

P2

P3

a

b

c

DL2020/5/03

3,75

3,64

3,28

2,84

2,41

DL2020/5/04

2,97

2,97

2,75

2,34

1,92

DL2020/5/24

3,73

3,82

3,41

2,97

2,53

Ghi chú: Áp suất được tính toán dựa trên phần mềm PT-MAFIC(Al-in Am); P1- áp suất tính theo Hammarstrom & Zen (1986) (P±3 kbar);P2- áp suất tính theo Hollister và nnk (1987) (P±1 kbar); P3-áp suất tính theo Johnson & Rutherford (1989), trong đó: a- P tối đa, b- P trung bình, c- P tối thiểu.

Qua bảng trên có thể rút ra một nhận xét rất thú vị là: mặc dù nằm trong bao thể với áp suất tồn tại ~23 kbar, nhưng áp suất thành tạo của Am chỉ có ~ 4 kbar; điều này chứng tỏ Am hình thành muộn hơn trong điều kiện áp suất nhỏ hơn và một lần nữa cho thấy Am ở đây là sản phẩm của quá trình biến chất trao đổi, như chúng tôi đã nêu ở phần trên.
KẾT LUẬN
1- Các đá bazan TNVN, đặc biệt là bazan kiềm, chứa khá nhiều các thể tù thành phần rất đa dạng và chắc chắn có nguồn gốc khác nhau. Sự có mặt của chúng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả phân tích các mẫu đá, vì vậy cần phải thận trọng khi đưa ra các mô hình thạch luận dựa trên các số liệu thạch địa hóa.
2- Mặc dù các số liệu thu thập được chưa phản ánh đầy đủ đặc điểm thành phần khoáng vật của các thành tạo bazan KZ TNVN, song kết quả bước đầu cho thấy, các khoáng vật tạo đá chính trong các đá bazan kiềm TNVN phân bố trong các dạng tồn tại khác nhau (trong các thể tù và trong bazan thực thụ) và được phân chia ra các nhóm riêng biệt, phản ánh khá rõ nét điều kiện thành tạo và quá trình tiến hóa các magma bazan vùng nghiên cứu. Olivin được phân ra làm 2 nhóm; orthopyroxen: 3 nhóm; clinopyroxen: 3 nhóm và amphibol: 2 nhóm. Đặc điểm của mỗi nhóm được mô tả trong bài.
3- Điều kiện P-T thành tạo của các magma bazan kiềm được xác định là: P~ 23 kbar, T ~ 1100oC. Tuy nhiên, độ sâu và nhiệt độ thành tạo của các magma này rất có thể lớn hơn các giá trị trên, bởi hai lý do: a- đã phát hiện granat có hàm lượng pyrop khá cao, tổ hợp với ilmenit và chromđioxit trong sa khoáng nằm trong diện lộ của các đá bazan kiềm; b- các thể tù siêu mafic, mà thành phần khoáng vật của nó được dùng làm căn cứ để xác định điều kiện nảy sinh magma bazan kiềm, rất có thể chỉ là những đại diện của các đá vách của manti bị cuốn hút vào magma trong khi di chuyển lên trên. Do đó, không loại trừ khả năng mang kim cương của các thành tạo magma KZ ở TNVN.
4- Trong quá trình tiến hóa các hoạt động magma TNVN, biến chất trao đổi có lẽ đóng vai trò rất đáng kể, vì vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của nó đến quá trình làm biến dạng thành phần các magma nguyên sinh.
Công trình này là kết quả của Đề tài độc lập cấp nhà nước ĐTĐL-2003/07 và Đề tài NCCB mã số 70.79.06 do Bộ Khoa học và Công nghệ tài trợ.

 

VĂN LIỆU

1. Barr S. M., MacDonald A. S., 1981. Geochemistry and geology of Late Cenozoic basalts of Southeast Asia. Geol. Soc. of America Bull., 93/11: 1069-1142.
2. Briais A., Patriat P. et al., 1993. Updated interpretation of magnetic anomalies and seafloor spreading stages in the South China Sea: Implications for Tertiary tectonics of SE Asia. J. Geophys. Res., 98: 6299-6328.
3. Carbonnel J. P. and Poupeu, 1973. Fission-track ages of the gem deposit of Pailin, Cambodia and the recent tectonics in the Indochina. Modern Geology, 14: 61-64.
4. Flower M. F. J., Nguyen Hoang, Nguyen Trong Yem et al, 1995. Cenozoic magmatism in Indochina: Lithosphere extension and mantle potential temperature. Soc. Malaysia, Bull., 33: 211-222.           
5. Flower M., Nguyen Hoang et al., 1996. Implications of basalt major element compositions for melting beneath Indochina: Response to reorganised spreading and thermally-anomalous asthenosphere. Bull. Soc. geol. France, 167/6: 773-784. Paris.
6. Kan Tu, M. F. J. Flower et al, 1989. Magmatism in the south China Basin: Isotopic and trace element evidence for thermal erosion of the subcontinental lithosphere. Submitted to Earth and Planetary Science Letters, July 1989.
7. Ngô Thị Phượng, Trần Trọng Hòa và nnk, 2001. Về khoáng vật chỉ thị của kimberlit và lamproit ở Việt Nam. TC Các khoa học về Trái đất, 23/4: 300-310. Hà Nội.
8. Nguyễn Hoàng, M. J. Flower, Phạm Tích Xuân, 1996. Vấn đề động lực hình thành magma bazan Kainozoi muộn qua kết quả nghiên cứu thành phần nguyên tố vết và đồng vị. ĐC tài nguyên (Công trình kỷ niệm 20 năm thành lập Viện Địa chất), I: 156-166. Viện Địa chất, Hà Nội.
9. Nguyễn Hoàng, M. J. Flower, Phạm Tích Xuân, 1996. Thạch luận bazan Kainozoi muộn Việt Nam. ĐC tài nguyên (Công trình kỷ niệm 20 năm thành lập Viên Địa chất). I: 156-155. Viện Địa chất, Hà Nội.
10. Nguyễn Hoàng, M. Flower et al., 1996. Trace elements and isotopic composition of Vietnamese basalts: Implications for mantle dynamics in the southeast Asian region. Bull. Soc. geol. France, 167/6: 785-795. Paris.
11. Nguyễn Hoàng, M. Flower et al., 1996. Major, trace elements, and isotopic compositions of Vietnamese basalts: Interaction of hydrous EM1-rich asthenosphere with thinned Eurasian lithosphere. Geochimica et cosmochimica Acta, 60/22: 4329-4351.
12. Nguyễn Hoàng and M. Flower, 1998. Petrogenesis of Cenozoic basalts from Vietnam: Implication for origins of a "Diffuse Igneous Province". Geo logy, 39/3: 369-395.
13. Nguyễn Kinh Quốc, 1985. Hoạt động núi lửa Mezozoi sớm ở miền Nam Việt Nam. TT báo cáo Hội nghị KHKT ĐCVN lần 2, 3: 183-200. Hà Nội.
14. Nguyễn Kinh Quốc, 1985. Về những bao thể đá siêu mafic và tinh thể lớn trong bazantoit kiềm ở Việt Nam. Bản đồ địa chất, 53: 15-21. Hà Nội.
15. Nguyễn Kinh Quốc, 1995. Cenozoic basalts of Indochina and adjacent areas. Abstr. Symp. Cenozoic evol. Indochina pen., p. 71. Hà Nội.
16. Nguyễn Viết Ý, Trần Trọng Hòa et al., 2004. On the forming origin of sapphire and ruby in Việt Nam. J. of Geology, B/23: 110-115. Hà Nội.
17. Nguyễn Xuân Bao, Tạ Hoàng Tinh và nnk, 1978. Địa chất miền Nam Việt Nam. Bản đồ địa chất, 3: 3-15. Liên đoàn Bản đồ địa chất. Hà Nội.
18. Nguyễn Xuân Tùng, Trần Văn Trị, 1986. Magmatism and plate tectonics of Indochina and neighbouring regions. Proc. Int. Conf. Geol. Indochina, 3: 1145-1165, Hồ Chí Minh City.
19. Phạm Tích Xuân, Nguyễn Xuân Hãn, 1996. Thạch luận các nodul siêu mafic và vấn đề nguồn gốc các khoáng vật đá quý trong bazan ở Nam Trung Bộ Việt Nam. Địa chất, A/236: 14-23. Hà Nội.
20. Phạm Tích Xuân, Nguyễn Hoàng, Lee Hyun Koo, 2004. Geochemistry of late Cenozoic basalts in Việt Nam and its tectonic significances. J. of Geology, B/24: 65-76.
21. Phan Truong Thi, 2004. Cenozoic magmatism of Vietnam eastern sea. Proc. Vietnam-Taiwan workshop on marine geology, pp 10-22.
22. Tapponnier P., Peltzer G. et al., 1982. Propagating extrusion tectonics in Asia: New sight from single experiments with plasticine. Geology, 7: 611- 616.
23. Tapponnier P., Peltzer G. et al., 1986. On the mechanics of the collision between India and Asia. In: Collision tectonics, Geol. Soc. London, Spec. Publ. 19: 115-157.
24. Taylor B. and Haeys D. E., 1983. Origin and history of the South China Basin. In Tectonic and Geologic Evolution of Southeast Asian Seas and Islands (ed. D.E. Hayes); Amer. Geophys. Union, Geophys. monogr, 27: 25-56.
25. Wilshire H. G., Meyer C. E. et al, 1988. Mafic and ultramafic xenoliths from volcanic rocks of western United States. US Geol. Surv. Prof. Pap. 1443 pp.
26. Witford-Stark J. L., 1987. A survey of Cenozoic volcanism on mainland Asia. Geol. Society of Amer., Special papers, 213, 74 pp.

 

Thị trường đá ba-zan
Hiện nay, trên thị trường có nhiều loại đá ba-zan khác nhau. Tuy nhiên, gia chủ nên tìm hiểu kỹ các loại đá chính như sau:
Đá bazan cubic
Đá ba-zan cubic là loại đá có kích thước tương đối đồng đều ở cả ba chiều dài, chiều rộng và chiều cao. Tổng thể, đá có ngoại hình trông giống như một khối rubik. Những đặc điểm chính của loại đá này như sau:
Kích thước phổ biến: 10x10x8 (cm) hoặc 10x10x10 (cm) 
Màu sắc: Đen, xám, ghi
Bề mặt: Thô, gồ ghề

Minh họa một viên đá bazan cubic
 

Đá ba-zan khò mặt
Đá bazan khò mặt là loại đá được khò nhám bề mặt nhằm chống trơn trượt và được sử dụng trong các công trình ngoài trời. Đặc điểm chính của loại đá này như sau:
 - Kích thước phổ biến: 10x10x5cm, 30x60x3cm
 - Màu sắc: Xám, xanh đen, nâu
 - Bề mặt: Thô nhám

Đá ba-zan khò lửa
Một trong những loại đá ba-zan rất phổ biến khác là đá ba-zan khò lửa. Thông tin cụ thể về loại đá này như sau:
 - Kích thước phổ biến: 15x15x3cm, 30x60x3cm
 - Màu sắc: đen, xám
- Bề mặt: Nhẵn hơn so với các loại đá ba-zan khác

Hình ảnh một căn nhà đang được ốp lát đá ba-zan ngoài sân vườn


Đá bazan xám
Đá ba-zan xám có màu sắc tương đồng trong các góc nhìn khác nhau. Ưu điểm về màu sắc giúp loại đá này ghi điểm trong mắt nhiều gia chủ. Một số thông tin khác về loại đá này:
- Kích thước phổ biến: 30x30x2cm, 30x60x3cm
- Màu sắc: tương đồng dù ở các góc nhìn khác nhau
- Bề mặt: Có cả nhẵn và nhám

 

Đá ba-zan thớt
Đá ba-zan thớt là loại đá được cắt thủ công, bề mặt đá tương đối nhám. Khi tìm hiểu về loại đá này, gia chủ có thể nhận được những thông tin như sau:
 - Kích thước phổ biến: từ 30 đến 60cm và 3-5cm độ dày
 - Màu sắc: xám đen, ghi đen
 - Bề mặt: Nhám, thô

Đá ba-zan dùng để làm gì?
Khi nhắc tới đá ba-zan, có thể nhắc ngay tới 03 ứng dụng nổi bật của loại đá này
  - Lát lối đi, sân vườn: Với ưu điểm chống trơn trượt tốt và ít bị bào mòn bởi thời tiết, đá ba-zan rất thích hợp để lát lối đi sân vườn. Những địa điểm này thường xuyên chịu tác động do con người và điều kiện môi trường khắc nghiệt (nắng, mưa, gió,…). Ngoài ra, bề mặt đá ba-zan tương đối nhám nên sẽ không gây trơn trượt nguy hiểm cho người sử dụng.
  - Ốp tường: Ngoại hình độc đáo và mang đậm dấu ấn tự nhiên khiến các dòng đá bazan trở nên thích hợp để sử dụng trong trang trí tường, kiến trúc ngôi nhà. Bên cạnh đó, nhờ độ bền của đá ba-zan mà ngôi nhà của gia chủ cũng sẽ có khả năng chống lại những tác động xấu của thời tiết. 
  - Làm thiết bị vệ sinh, bồn tắm, lavabo

Đá ba-zan được ưa chuộng vì có nhiều ứng dụng khác nhau


Cập nhật mức đá bazan mới nhất
Hiện nay, với mỗi loại đá khác nhau và kích thước khác nhau, mức giá của đá cũng có sự chênh lệch thay đổi. Theo ghi nhận của Nhadepinfo.com, hiện nay mức giá trung bình của đá bazan là khoảng từ 400.000 đến 700.000đ mỗi mét vuông. Mức giá này chỉ mang tính chất tham khảo, Nhadepinfo.com gợi ý quý gia chủ liên hệ trực tiếp các đại lý phân phối vật liệu xây dựng để được tư vấn về giá chính xác nhất.